Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017

Má tôi thường dí dỏm “Một thằng Việt Kiều và một bầy Việt gian” để mắng yêu đám con cháu tụ hợp ăn nhậu rần rần mỗi lần tôi về Việt Nam thăm gia đình.

Năm 1998 tôi trở về Việt Nam lần đầu tiên sau 25 năm xa xứ.

Ngồi trên máy bay mà lòng tôi hồi hộp vì bấy lâu nay, Việt Kiều bị xem là “bọn ngụy, là thành phần phản bội quốc gia, làm tay sai cho địch, thù hằn với cách mạng”, bổng nhiên được vinh danh thành “Việt Kiều yêu nước”

Ý nghĩa và cảm xúc của cụm từ “Việt Kiều” thay đổi theo thời gian với bao vui buồn vinh nhục, kẻ thương người ghét, kẻ khen người chê. Việt Kiều có thể phân biệt giữa Việt Kiều “chui” và Việt Kiều “ bay”. Việt Kiều “chui”, phải trốn chui trốn nhủi liều chết mà đi, được danh hiệu Việt Kiều phải trả bằng mồ hôi, nước mắt, tội tù, và cả sinh mạng của mình. Còn Việt Kiều “bay” ung dung ra đi, được người đưa kẻ đón, bay vù là tới đích. Rồi tiệc tùng khoản đãi, tiếp đón vui mừng. Nhưng nói chung chung, Việt Kiều là …Việt Kiều. Có ai phân biệt Việt Kiều “chui” hay Việt Kiều “bay” bao giờ?

Theo định nghĩa Việt Kiều là người Việt Nam ở ngoại quốc (overseas Vietnamese) một khi trở lại Việt Nam sẽ là người Việt, nên phải chịu sự quản trị của chính quyền VN. Điều nầy đúng cho các “Việt Kiều bay” vì họ song tịch, nhưng đối với các “Việt Kiều Chui”, họ đâu còn là công dân của CHXHCNVN nữa nhưng vẫn “được xử đẹp” khi vừa đặt chân đến phi trường Tân Sơn Nhất.

Tội nghiệp “Việt Kiều chui”, chui đi rồi lại chui về, chui cách nào cũng khổ!

Khi bang giao Việt Mỹ vừa được thành lập (July 11, 1995) quyết định về Việt Nam là cả một sự liều lỉnh. Có người còn trăng trối trước ngày ra đi; hồi hương mà còn hơn ngày nào vượt biển! Việt Kiều bị kiểm soát theo dỏi chặt chẽ. Đến phi trường phải khai báo với hải quan tất cả những gì mang theo kể cả nhẫn cưới, đồng hồ cho đến cái quẹt zippo. Khi rời Việt Nam nếu thiếu sót món nào sẽ được “mời” đi “làm việc”.
Anh bạn ngồi sát tôi trên phi cơ kể lại rằng bạn gái anh đã về năm trước, phải giấu tiền trong quần lót để mang về cho gia đình đang đói khổ. Tội nghiệp cô gái đang xinh đẹp trở thành người khuyết tật, đi đứng khó khăn.

Tôi có người bạn phải trở về Mỹ sớm một tuần, bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Anh “đăng ký di trú” ở Sai gòn, rồi về tỉnh thăm gia đình bên vợ, ngủ lại đêm. Sáng sớm hôm sau có công an đến tìm, “mời” anh trình diện gấp. Có thể công an chỉ “mời” anh để nhắc nhở đăng ký chỗ ở mới, nhưng khi được “mời” anh teo quá, vọt luôn về Mỹ, thề không bao giờ trở lại cái xứ quá lịch sự hay mời mọc nầy.

Phi cơ vừa đổ xuống phi trường Tân Sơn Nhất tự nhiên cảm giác hồi hợp chuyển sang lo lắng. Tôi thấy bồn chồn, cái cảm giác sợ sệt, bất an bổng chợt đến, nhất là khi thấy cờ đỏ treo rợp khắp nơi, cái màu “ấn tượng” làm tôi thấy ớn lạnh.

Máy bay đậu xa tít ngoài phi đạo. Mọi người tự khệ nệ hành lý xách tay của mình đi bộ vào phi trường. Thuở ấy không có cầu quây, cũng không có xe bus. Người nào cũng mang theo mấy túi xách tay căn phồng vì cố nhét thêm cái bàn chải đánh răng, cục kẹo, cục xà bông cho gia đình.

Rồi đến màn làm thủ tục. Lúc ấy là thời buổi “kinh tế”, cái gì cũng hiếm, nên các Quan ở phi trường tiết kiệm cho quốc gia kể cả tiếng nói và nụ cười, mặt lạnh như tiền, chỉ lườm lườm nhìn mặt từng người. Quan cầm hết giấy tờ rồi cắm đầu, giúi mắt vào cái hộ chiếu, lặng thinh, như đang đợi chờ ở tôi điều gì. Không khí nặng nề. Vì là lần đầu tiên về xứ nên tôi lớ ngớ như đang đứng trước vành móng ngựa, mắt nhìn vẩn vơ mấy con thằn lằn trên trần nhà. Khá lâu sau, ngài lừ đừ ngước mắt nhìn tôi, mở miệng bắt đầu thẩm vấn. Tôi cứ vểnh tai “xin lỗi” mãi, vì Quan nói rất nhanh, lí nhí trong miệng, hình như tiếng Việt, giọng Bắc mà tôi chưa bao giờ nghe. Quan thấy tôi cứ lớ ngớ mãi mất thì giờ nên cho đi qua. “Khù khờ” nhiều khi cũng có lợi.

Những lần kế tiếp tôi về Việt Nam với gia đình. Bà xã tôi muốn được yên thân như bao hành khách khác, khuyên tôi nên “ Dĩ hòa vi quí”, nhưng tôi nhất định không nghe vì nghĩ rằng “Hối lộ cho bọn nầy để được yên thân, nhục nhả lắm”. Mình chửi người ta ăn hối lộ bây giờ lại chính mình xúi họ ăn!”. Tôi nhất định đóng vai “khù khờ”, đứng lì như lần trước. Nhưng lần nầy Quan còn lì hơn tôi, không thèm mở miệng. Thấy tình hình không ổn, bà xã kéo tôi về sau, giả lã chào hỏi rồi chìa tay như bắt tay Quan, trong bàn tay bà lộm cộm tí quà! Tôi làm ngơ không “thèm” thấy, vừa quê, vừa nhục, nhưng lại mừng vì được bà xã nhanh nhẩu cứu bồ. Đợi khi qua khỏi ải tôi hùng hổ cự nự bà, y như một tên hảo hán: “các bà chỉ giỏi cái miệng thày lay, để đàn ông người ta làm việc”. Bà im rơ, không thèm trả lời, nhìn tôi bằng cái đuôi mắt!

Thêm mấy trạm xét nữa phải qua trước khi đến đến trạm nhập cảnh mà tôi gọi là trạm “thông cảm”, cách xa chừng vài mươi thước, nhưng phải đi lòng dòng mấy lượt mới đến, trông giống như ở các phi trường quốc tế ở các xứ văn minh, to lớn lắm..

Trạm nầy các Quan ngồi thụp trong cái hộp, chỉ ló nửa cái đầu và cái mũ kết. Quan ở trạm nầy hình như không ai biết nói. Họ chỉ nhìn và bổn phận kiều dân phải “thông cảm” họ đang nghĩ gì. Nơi đây tôi đã một lần lỡ dại, bị giữ lại vì không biết “thông cảm”, không biết “dằn” chiếu khán bằng đô. Quan nổi giận, chơi tôi liền tại chỗ. Ngài đưa cho mấy cái mẫu đơn hất cầm về phía cái bàn trống. Ngài phán:

“Nàm nại cái đơn này”.

Tôi ngạc nhiên, thì ra ngài biết nói cứ đâu có bịnh hoạn gì!

Tôi cự nự:

“Tôi có visa sao phải làm lại?”

Quan vẩn không nhìn tôi, nói trổng không:

“Bảo nàm tì nàm”

Tôi đã nóng mũi chửi thầm “nàm tì nàm” sợ gì, rồi loay hoay làm lại 3 cái đơn cho gia đình 3 người. Làm xong, nhìn quanh mọi người đều đã đi hết, chỉ còn lại gia đình tôi. Tôi sinh lo “Chết cha rồi, còn mấy cái va-li chưa lấy...” Tôi lính quýnh vội nộp đơn. Quan vẫn không thèm nhìn tôi, cũng không thèm đọc đơn, phán:

“Nộp ba tấm hình”

“Mồ tổ nội mày, làm sao tao có sẵn ba tấm hình mà nộp?!” tôi chưởi thầm.

Tôi thấy nóng mặt, rịn mồ hôi trán, định chơi xả láng cho đã tức rồi đến đâu thì đến. Có cái cùi chõ thúc vô hông, bà xã tôi lườm cho một cái, rồi nháy nháy một mắt, ý muốn nói “để đó cho bà lo!” Đang hùng hổ tôi xếp ve. Bà đã nắm sẵn trong lòng bàn tay tờ giấy bạc cuộn tròn, làm như vô tình với tay bỏ rơi xuống bàn.

Quan vẫn oai nghi, bình thân như vại, mặt vẫn lạnh như đồng, dằn 3 cái sổ thông hành đã đóng dấu visa. Vẫn không thèm nói, chỉ khoát tay ra dấu cho đi, còn dạy dỗ theo:

“Nớ né, nần sau nớ nàm tốt né”.

Chỉ tội cho tôi, bị bà xã cằn nhằn dài dài vì tội anh hùng không đúng chỗ; và từ đó bà phụ trách luôn “khâu giao tế” ở phi trường.

Hỗn độn nhất là ở cái trạm hải quan, nơi kiểm soát hành lý. Mặc tình cho mọi người chen chúc xô đẩy. Nhiều người không biết luật giang hồ, va li bị mở tung để lục xét, đồ đạc lung tung. Các bà vừa xếp đồ vừa lầm bầm chửi rủa. Có ông tức quá vất cả đồ xuống đất, văng vảy tung tóe, miệng chửi thề ỏm tỏi!! Riêng tôi từ lúc được bà xã truất phế thành “phó thường dân”, mọi chuyện đều tốt đẹp hơn. Bà xã tôi biết “nàm tốt” nên chúng tôi được tống khứ ra khỏi trạm thật nhanh để trống chỗ cho mối khác.

Có một lần khác, được tin ba tôi nhập viện vì bị tai biến mạch máu não, đang trong tình trạng coma. Nóng lòng như lửa đốt, tôi phải bay về Việt Nam gắp nên không kịp làm chiếu khán. Tôi đi đường bằng một chiếu khán tạm và được cho biết là chiếu khán chính thức sẽ được cấp khi đến phi trường TSN. Dĩ nhiên là tôi phải trả một giá rất cao cho dịch vụ chiếu khán tạm nầy. Vì bắt buộc nên tôi phải đi nhưng “đánh lô tô” trong bụng.

Tới phi trường TSN, họ giữ luôn sổ thông hành rồi “mời” tôi về nghỉ ở một khách sạn để chờ giải quyết. Khách sạn nầy sao rất lạ, có cổng sắt đóng kín mít, lại có lính gác? Anh lính gác cũng đặc biệt, mặc đồ lính nhưng mang dép cao su và bỏ áo ngoài quần, ngồi gác chân lên bàn.

Căn phòng nhỏ xíu, sơn màu vàng với cái giường con, khi nằm còn ló hai cái bàn chân ra ngoài. Người tôi ướt mem “mồ hôi mẹ mồ hôi con” với cái nóng Sài Gòn hâm hấp. Bóng đèn điện ở giữa phòng thì lù mù, nhấp nhá khi tối khi sáng theo điệu “tăng gô”.

Đợi cả buổi chiều không thấy ai tiếp xúc, bị đói run và khát nước khô cả cổ, tôi nhờ anh lính gác mua giùm chai nước, 2 tô hủ tiếu và gói thuốc, tôi và hắn cứa đôi. Bây giờ tôi đã khá hơn, biết cách “nàm tốt”. Không có tiền Việt Nam, tôi đưa hắn tờ $ 20 đô, không thấy anh đưa lại tiền thối nhưng tôi không dám hỏi. Tô hủ tiếu nhỏ xíu, gắp một đũa là hết sạch. Tôi húp hết nước lèo vẩn còn đói. Hủ tiếu gõ Sài Gòn thế mà ngon lạ, nhưng giá cả thì không rẻ, mắc gấp mấy lần ơn ăn ở khách sạn năm sao!

Trời đã tối, tôi bắt đầu thấy lo. Khoảng 8 giờ có người đến gặp tôi. Anh chàng ăn mặc lịch sự nhưng tôi phải vểnh tai nghe cho kịp vì anh nói rất nhanh, giọng Bắc lạ lắm. Bên Mỹ tôi phải vểnh tai ráng nghe vì họ nói tiếng Mỹ, còn ở đây anh bạn nói tiếng Việt Nam nhưng tôi còn ngố hơn! Anh đề nghị để anh lo mọi chuyện, tốn $200, bảo đảm ra tức khắc. Tôi nghe mùi khó ngửi, biết đang gặp bọn bất lương nên từ chối.

Suốt đêm hôm đó tôi không ngủ được, ôm cái bụng đói thao thức nhìn cái bóng đền chớp chập chờn điệu “Tăng gô” chuyển sang “xì lô rock”, vừa giận mình ngu, vừa tức mình bị gạt, lại vừa sợ: “Cá nằm trên thớt, không biết bị chặt kiểu nào đây?”

Sáng hôm sau, sau một ngày một đêm bị bỏ đói, tôi được trả lại hết giấy tờ thêm giấy chiếu khán, nhưng phải trả $40 cho khách sạn “không sao”, và các cước phí khác, tổng cộng khoảng $80. Tắm hơi được khuyến mãi miễn phí. Một khi cá đã vào rọ rồi, không trầy vi cũng tróc vảy. Tôi kéo vali ra đường, đứng lơ ngơ như con bị bỏ chợ, chửi thầm mình: “bỏ tật mầy ngu nghe lời chúng hứa, sao không nhớ lời Tổng Thống Thiệu nói!”

Chuyện dài phi trường nó xưa như trái đất nhưng nói hoài không hết. Nhưng phải công nhận là có sự tiến bộ. Ngày nay đến phi trường không còn thấy “ớn lạnh” như xưa nữa. Hồi xưa Quan “dọa” để ăn. Lần lần Quan ăn nhờ “thông cảm”. Sau đó thì quan “xin xỏ” đàng hoàng. Thà thế mà vui cả đôi bên, không thấy tức trong lòng.

Một lần khác tôi đưa bà mẹ vợ về Việt Nam ăn tết. Các Quan vui vẻ xin tiền lì xì:

“Tết nhất đến “dồi”, xin bác cứ “nì xì” vô tư ạ.”

Mẹ tôi nhanh nhảu móc túi lấy mớ giấy bạc nhét vào tay họ. Tôi thấy vậy cự nự bà:

“Má nầy, chỉ tập chúng nó ăn bẩn rồi quen”

Mẹ tôi vừa kéo tay tôi đi nhanh hơn, vừa đi vừa cười tủm tỉm:

“Má đâu có ngu, giấy một đồng đó con!”

Viêt Kiều ngày nay càng ngày càng “lém”, hù dọa họ không sợ, xin xỏ họ làm lơ. Các quan ở phi trường sống được là nhờ “dưới hốt trên nâng”, nếu dưới không hốt thì lấy gì mà nâng lên trên! Các quan “bần cùng sinh đạo tặc” nên gần đây xuất hiện chiêu mới, rạch toẹt các va li mà chôm chỉa thì tụi bây có chạy đàng trời!

Bị hành hạ, bóc lột, bị đối xử lạnh lùng vô cảm, Việt Kiều vẩn ùn ùn kéo nhau về nước. Điều đáng buồn là cách đối xử “kém văn hóa” nầy chỉ áp dụng cho “Khúc ruột ngàn dậm” mà thôi. Tôi thấy các hành khách người Á châu như Đại Hàn, đám Tàu ngố mặc quần “xà lỏn” áo thun đi dép chệt nghênh ngang qua ải. Người Âu người Mỹ không ai dám đụng đến. Chỉ tội nghiệp cho đám “mít” hồi hương là con cừu non béo bở một khi đã lạc vào trong đám sói, mặc tình chúng giỡn mồi.

Nắng Saigon như đổ lửa. Các thân nhân đến đón Việt Kiều bị chặn ngoài sân bởi cái hàng rào sắt. Giữa trời nắng chang chang hàng trăm người già trẻ bé lớn đứng lố nhố, chen lấn nhau, tay ngoắc miệng kêu, ráng vương cổ, nhón gót để nhìn thấy thân nhân đang bước ra khỏi cửa phi trường.

Sao bao năm thương nhớ, nhiều bà mẹ vừa trông thấy con đã òa lên khóc. Mấy cô cậu trẻ, miệng réo om sòm, tay ngoắc lia, ngoắc lịa “Em đây nè chị Hai..hu. hu, anh Ba.. hu… hu…” rồi với tay ra ngoài rào sắt nắm áo người thân miệng mếu máo. Kẻ hân hoan người sụt sùi, gia đình sum hợp bùi ngùi, cảm động làm sao mà kể xiết.

Chú Út và anh Bảy đem ghe đến đón tôi ở chợ quận. Lúc ấy (1998) phương tiện giao thông đường bộ gần như không có. Mọi di chuyển đều bằng ghe.

Hai mươi lăm năm rồi mới gặp lại nhau, trông ai cũng già đi. Chú Út ngày nào là cậu thư sinh trung học, bây giờ trông dạn dày sương gió. Anh Bảy, chàng Thượng Sĩ Quân Cảnh Tư Pháp oai nghi, nay tóc đã hoa râm, tay chân chai cứng, cái khắc khổ của người nông dân tay lắm chân bùn. Ba anh em nhìn nhau không biết nói gì. Chú Út rơm rớm nước mắt: “Anh Chín khỏe” rồi nghẹn lời. Anh Bảy bóp vai tôi thật mạnh như muốn tỏ hết tình thương và sự vui mừng, mắt ai cũng rưng rưng ngấn lệ.

Khi đến nhà, tôi không thể nhận ra bờ sông trước nhà nơi mà ngày xưa tôi cùng hai người anh lặn hụp cả ngày, tắm sông, câu cá.

Cả nhà tề tựu đón Việt Kiều về xứ. Con nít chạy lăng xăng phụ khuân vác mấy cái va li. Mấy bà vừa lo cơm nước vừa chạy vô chạy ra thăm hỏi. Mấy ông khề khà lai rai rượu đế. Hôm nay nhà vui như có giỗ.

Ba tôi lúc ấy đã mù, ngồi trên bộ ván đợi con. Hai tay ba bóp nhẹ tay tôi, từ bàn tay cho đến vai, xem con mình mập ốm ra sao, sau bao năm xa cách. Nước mắt tôi chải dài trên má, nhưng cố gắng không bật thành tiếng khóc trước mặt mọi người đang quây quần. Má tôi nước mắt lưng tròng, tay bà nắm tay tôi không rời. Ngồi cạnh ba tôi, bà lắc tay ông rồi nói: “ông dặn tui không được khóc khi gặp thằng Chín nó về, nhớ nhen”. Trong khóe mắt sâu thẩm của ba tôi đọng đầy nước mắt. Tôi không dằn lòng nỗi nữa, chạy vội ra sau nhà bật thành tiếng khóc. Có ngờ đâu anh Bảy cũng giống như tôi, trốn mọi người, đang đứng khóc sau nhà. Hai anh em nhìn nhau rồi cùng chùi nhanh nước mắt, trở vào nhà xúm xít cùng anh em, rót rượu cụng ly chúc mừng nhau, “dô, dô” vui như hội.



Quê hương là cái nôi nuôi ta khôn lớn, là nơi mà những hạt giống yêu thương được gieo trồng, nẩy mầm, ăn sâu thành cội rễ. Đó là cái gốc Việt. Việt Kiều tha hương như đám chim lạc bầy khát khao được bay về tổ ấm để tìm lại những hạt giống yêu thương đó, cái mà mà họ thiếu thốn ở xứ người.

Rồi theo thời gian, những Việt Kiều lớn tuổi lần lượt ra đi, âm thầm mang theo với họ những hình ảnh đẹp của quê hương ngày xưa. Giấc mộng ngày vinh quang trở về với quê cha đất tổ đành gởi lại cho đàn con. Nhưng tiếc thay đàn con, những Việt Kiều hậu bối, đã thay đổi rồi. Dưới mắt họ, Việt Nam xa lạ quá, nó có gì đâu mà lưu luyến, để mà về!
Cả người Việt Nam trong xứ nếu có cơ hội còn muốn bỏ xứ mà đi. Phong trào xuất ngoại đang rần rộ trong mọi giới. Các đại gia tìm nơi rửa tiền. Thành phần trí thức, giới trẻ đi tìm đất lành chim đậu. Giới bình dân, vì bát cơm manh áo, phải chấp nhận “xuất khẩu lao động”, xuất khẩu “ô sin”. Nhưng cái quốc nhục là phong trào xuất khẩu “gái giống” sang Tàu, Đài Loan, Đaị Hàn dưới hình thức cô dâu. Thật đau đớn thay cho con cháu bà Trưng, bà Triệu ngày nay!

Mặc ai bỏ xứ ra đi, mặc ai không màn trở lại, Việt Kiều khắp nơi vẫn ùn ùn kéo nhau về xứ.

Họ có thể là những “Việt Kiều cô đơn” luôn canh cánh bên lòng nỗi buồn viễn xứ muốn hồi hương để gặp lại người thân, tìm lại hương vị quê hương, muốn nhìn lại nơi chôn nhau cắt rún của mình. Việt kiều nầy ngày nay là “loài quí hiếm”, rất khó tìm.

Họ có thể là những “Việt Kiều áo gấm về làng”, là thành phần trẻ đã tạo được đời sống ổn định, tài chính dồi dào, nay “Vinh quy bái tổ” để giúp đỡ thân nhân, xun xoe cùng hàng xóm láng giềng.
Họặc họ là những “Việt Kiều du khách”. Họ muốn nhìn thấy và khám phá Việt Nam, hoặc để tìm nơi vui chơi giải trí, hàng tốt, giá bèo.

Nhưng thành phần cần suy ngẫm là những “Việt Kiều cơ hội” thành phần đã chóng quên dĩ vãng đau thương quay về họp tác với CSVN vì tiền. Đồng tiền đã biến họ thành những “Việt Kiều vong bản”, đã góp tay xây dựng chế độ CS đề cùng nhau rút rỉa xương tủy Việt Nam.

Từ ngày viễn xứ, tôi xem mình như là con chim Việt lạc bầy nhìn lại quê hương với một nỗi niềm riêng. Việt Nam thay đổi quá nhiều, quá nhanh, đến đổi tôi không còn theo kịp nữa. Sau 44 năm lưu vong nhìn lại quê hương, sao thấy mình xa lạ. Tôi tự hỏi có phải chăng tôi đã tách rời khỏi quê hương hay chính quê hương đang từ bỏ những con chim lạc bầy?

Tôi thấy xót xa trong lòng mỗi khi nghe câu hát nhạc của sĩ Lam Phương:

"Ngày xưa tôi quen từng viên đá quanh sân trường”

“Nay sao nghe khác từ tên đường!”



Tôi thấy mình lạc lỏng vì đã bỏ quê hương xứ sở mà đi, nhưng sao có những người trẻ tại Việt Nam như cô giáo Lam cũng thấy lạc lỏng giữa quê hương của mình? Cô đã viết lên niềm đau ray rứt trong tim qua bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh” đã làm rung động bao trái tim:

Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…
Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…
Đất nước mình buồn quá phải không anh
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…
Đất nước mình thương quá phải không anh
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…

Niềm đau ray rứt nầy không phải của riêng cô, mà là của hằng triệu trái tim, là niềm đau chung của dân tộc Việt Nam, kể cả những người Việt lưu vong khắp nơi trên thế giới, những người còn gọi Việt Nam là “đất nước mình”.
Chú Chín Cali
Anne Khánh Vân
Từ ngày có gia đình sang ở gần, tôi “phong phú” được thêm một số “đức tính” cùng một số kiến thức, nhất là kiến thức về bệnh tật.


Những kinh nghiệm và học hỏi có đủ loại: từ đau lặt vặt nơi con trẻ như sốt nửa đêm phải đi cấp cứu, hay té lăn quay trên cầu thang lăn xuống bươu đầu sứt trán… đến mổ hạch, mổ ruột thừa, cắt bao quy đầu. Nói là lặt vặt nhưng khi nhìn thấy cu Khang còn thuốc mê, nằm im không cục cựa trong phòng hồi sức với con chim sưng vù với hàng chục mũi kim khâu như cái vương miện dựng đứng… ai cũng thất kinh hồn vía?!


Những bệnh tình hoặc quá trình khám nghiệm cầu kỳ nơi người lớn có thể là soi ruột và soi bao tử (endoscopy) để khám phá ung thư bao tử, hay soi mạch tim, thông và nông mạch tim (angioplasty) để ngăn ngừa nhồi máu cơ tim … mất thời giờ và phức tạp hơn từ phần chuẩn bị đến việc chữa trị.


Rồi gần đây nhất là các chứng ung thư, đặc biệt là tuyến tiền liệt (prostate cancer). Tên căn bệnh này thì tôi có hay nghe tới, nhưng biết được bao nhiêu thì lại là chuyện khác. Chị bạn nghe chuyện tía tôi mắc bệnh, hỏi thăm “ung thư tuyến tiền liệt là ung thư gì hở em? Tuyến tiền liệt nằm ở đâu?” Nếu căn bệnh này không gõ cửa nhà tôi mà tôi biết tuyến tiền liệt là cái thứ tuyến gì thì tôi… chết liền á. Người nhà mắc phải mà kẹt không khá tiếng Anh để có thể tự đi bác sĩ và cần mình đi theo nên tôi phải tìm hiểu về căn bệnh để làm cái cầu trung gian giữa bác sĩ và bệnh nhân.


Ngoài những bộ phận chung mà cơ thể nào cũng có, phụ nữ thì có các chứng như ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư tử cung... Đàn ông thì ung thư tuyến tiền liệt (prostate). Tuyến tiền liệt, hay còn gọi là nhiếp hộ tuyến, có kích thước cỡ trái óc chó (walnut), nằm phía dưới bọng đái (bladder) và phía trước trực tràng (rectum). Ống nhỏ dẫn nước tiểu và tinh dịch đi suốt chiều dài của dương vật (pennis) sẽ đi ngang qua tuyến tiền liệt. Tuyến tiền liệt cung cấp chất liệu dung môi giúp tinh trùng tồn tại và di chuyển dễ dàng đến trứng trong lúc giao hợp. Tuyến tiền liệt phì đại lần thứ nhất ở độ tuổi thanh thiếu niên trong điều độ của kích tố nam (male hormone). Thời kỳ phì đại lần thứ nhì diễn ra trong độ tuổi 45-60. Tuyến tiền liệt không cần thiết cho suốt quãng đời sống, nhưng nó quan trọng cho việc duy trì giống nòi.


Khi ung thư tuyến tiền liệt ngày càng phổ biến nơi nam giới, kiểm tra độ bình thường của tuyến tiền liệt (PSA - Prostate-Specific Antigen) đã trở thành bắt buộc trong những kỳ khám bệnh hàng năm với mục đích phát hiện ung thư sớm để chữa trị kịp thời. Chỉ số PSA dưới 4 sẽ là bình thường. Từ ngoài 4 đến 10 sẽ thuộc ung thư với nguy cơ thấp. Trong giữa 10 đến 20 sẽ thuộc nguy cơ trung bình. Từ 20 trở lên sẽ là cao. Và kết quả PSA của tía Hai Lúa của tôi là 37.9 có nghĩa rất cao. Phải làm sinh thiết (biopsy) để xác định chắc chắn độ ung thư.


Quá trình thực hiện sinh thiết (Biopsy procedure) này sẽ nhéo ra một số mẩu tế bào của nơi khả nghi có ung thư để xét nghiệm. Kết quả sinh thiết của tía Hai Lúa tôi: trong 12 mẩu tế bào tuyến tiền liệt được lấy ra và làm xét nghiệm thì 10 mẩu có kết quả ung thư cao.


Hẹn với bác sĩ kéo dài hơn một giờ đồng hồ. Theo dõi và chữa trị cho một bệnh nhân ung thư đòi hỏi sự kết hợp của nhiều bác sĩ. Bác sĩ chuyên khoa gặp gỡ gia đình tôi cũng là người đã làm sinh thiết cho tía tôi. Bà đã hội ý với đồng nghiệp chuyên chữa trị căn bệnh và giải thích tường tận cho gia đình tôi các nguy cơ có thể xảy ra nếu ung thư phát triển nhanh, và từ đó, các bước cần làm tiếp theo, cũng như các phương cách chữa trị sẽ tùy thuộc vào kết quả của những xét nghiệm sắp đến.


Rời khỏi văn phòng bác sĩ, mặc dù đã tìm hiểu về căn bệnh mấy tháng qua, song tôi vẫn có cảm giác như mình vừa ra khỏi tiết học chuyên về bệnh ung thư tuyến liền liệt – tôi biết thêm được cả lô kiến thức quan trọng, hữu ích về căn bệnh ấy. Bên cạnh nỗi lo âu về căn bệnh của tía, tôi cảm thấy tía mình đã may mắn có được những bác sĩ giỏi, tận tình, quan tâm chữa trị.


Một khi đã được xác nhận thật sự bị ung thư và ở mức nguy hiểm nào, bệnh nhân sẽ được đề nghị chụp hình quang tuyến X (X-ray) và cắt lớp bằng điện tử (MRI) để xem ung thư có đã di căn đi đâu hay chưa.


Đây là giai đoạn hồi hộp và căng thẳng nhất. Nếu ung thư đã di căng đi nhiều nơi trong cơ thể thì coi như hơi bị… kẹt hy vọng. Một người bạn đồng nghiệp của tôi có vợ bị ung thư bao tử. Khi phát hiện thì ung thư đã vào tủy. Chị được chữa trị bằng hết tất cả các cách: giải phẫu cắt đi bướu ung thư, xạ trị (radiation) cho vùng tủy xương bị ung thư lan đến, và hóa trị (chemo) để mong đánh bại tất cả các tế bào ung thư đang có bất cứ đâu trong cơ thể. Chị được chữa trị khoảng một năm thì qua đời, để lại ba đứa con đều dưới 18 tuổi. Đi đám chị, nỗi buồn thấm thía trong tôi. Người ta vẫn thường nói, “sinh lão bệnh tử”… nhưng chị ấy còn chưa bước qua tuổi 50!


Tôi đưa tía mình đi chụp quang tuyến X để dò ung thư trong phần mềm (nội tạng, bắp thịt) của cơ thể. Kế đó là chụp MRI, để dò ung thư trong các phần cứng (xương cốt). X-ray và MRI là những phương pháp định dạng những cấu trúc bất thường của sinh mô bằng những tần số và những bước sóng khác nhau. Nhược điểm của X-ray so với MRI là nó chỉ cung cấp những định dạng phẳng của những sinh mô bất thường trong nội tạng của cơ thể, chẳng hạn có thể thấy vết nám trong phổi, hay sạn trong thận... MRI thì sử dụng hiện tượng cộng hưởng của vật lý để cung cấp được những định dạng ba chiều bằng phương pháp cắt lớp. MRI không làm hại cho những sinh mô lành. Trong khi X-ray thì có thể. Bạn có nhớ khi đi nha sĩ mà cần chụp hình răng, chúng ta phải được phủ lên người miếng áo khoác bằng chì để các tia X-ray không làm hại đến những sinh mô lành trong cơ thể.


Tổng cộng thời gian cho quá trình chụp từ đầu xuống chân bằng cả hai phương pháp X-ray và MRI kéo dài từ 3 đến 4 tiếng đồng hồ vì bệnh nhân phải uống gần 2 lít dung dịch phát quang trong nội tạng. Tôi xin bác sĩ cho ngồi nhìn màn hình chung với họ. Khi thấy một hình dạng gì mà con mắt không chuyên môn y khoa của tôi hổng hiểu nổi, tôi nhờ bác sĩ giải thích. Thế là lại được hiểu thêm một vài điều mới. Quả thật, kiến thức nào cũng có cái giá của nó.


Trong phòng chụp hình có nhạc thư giãn giúp bệnh nhân quên đi lo âu. Không biết khi nằm trong cái máy chụp hình đó, tía tôi đã suy nghĩ những gì vì bản tính ông rất “vô tư”... Tôi nhớ lại lần ông ngoại bên nhà đột nhiên ngã bệnh. Tôi chạy về ở bên ông ba tuần. Đưa ông vào nhà thương để siêu âm, xếp hàng chen chúc và chờ thật lâu, khi vào được trong và tới phiên ông ngoại được siêu âm, ông được các nhân viên siêu âm khoảng năm phút… Các cục ung thư cái to bằng trái cam, cái to bằng quả trứng, đã đi cùng khắp. Ông ngoại là tất cả của tôi. Nhìn ông, lòng tôi bể ra từng mảnh vụn …nhưng không dám tỏ ra lo âu thương xót. Ông thì nhìn xung quanh, nhìn lượng người bệnh chen chúc và chỉ muốn một điều, “Về nhà đi cháu ạ! Ông không sao đâu.” Ông đã ngoài 80. Quyết định để tâm ông được “yên” và cơ thể ông được “lành lặn”, gia đình tôi đưa ông về nhà, chuẩn bị phần tinh thần cho ông.


Hôm nay, không biết ông tía của tôi sẽ ra sao! Kết quả của buổi chụp hình hôm nay sẽ ảnh hưởng nhiều thứ trong gia đình. Những người trong nhà, từ người nhỏ tới người lớn, từ trẻ con tới người già, hổng ai biết gì nhiều. Nhiều giả thiết và kế hoạch chạy tán loạn trong đầu tôi. Trong những hoàn cảnh thế này, tôi chỉ kêu đến một người, một người ở tuốt trên cao đó!


Phải đi lung tung tứ bề và nếm trải đủ thứ mùi vị trong cuộc sống… Còn hiện hữu và đi đến được chặng đường này của cuộc đời, chẳng phải vì tôi hay ho hơn ai mà có lẽ vì tôi đã siêng cầu nguyện. Tôi tin tưởng Thượng Đế luôn đồng hành với sự cố gắng và thành tâm của mỗi người mình. Tôi nói với tía Hai Lúa, “Nếu ba chưa bao giờ tin có Thượng Đế, hoặc chưa bao giờ cầu nguyện… thì có lẽ đã đến lúc ba hãy bắt đầu tin và cầu nguyện, vì Thượng Đế có thể làm những điều con người không thể làm.”


Trước năm 75 thì tôi còn bé nên không nhận biết ba mình là người như thế nào. Nhưng từ năm 75 về sau, qua những gì tôi sống và chứng kiến khi còn gần gũi với gia đình thì có vẻ tía tôi đã mất đức tin vào ngày mai, rồi đâm nghi ngờ có chăng Thượng Đế. Nhưng tôi đã không ngừng chứng minh cho tía thấy. “Nếu không có Thượng Đế thì con, ba, và gia đình mình khó mà còn tới giờ này, lại càng chẳng bao giờ đặt chân đến được Mỹ. Ba sẽ không bao giờ được nằm trong cái máy “hiện đại” đó, ở cái nhà thương hạng nhất của nước Mỹ đó, và đang được chữa trị… dù ba không phải là triệu phú, mà cũng chưa đóng góp được cho nước Mỹ bao nhiêu.”


Xong tiến trình chụp hình, tôi đưa ba về nhà, rồi đi làm. Bác sĩ gọi điện thoại cho tôi trấn an, “Qua quan sát sơ khởi, tôi không thấy có gì trầm trọng. Sẽ chuyển hình chụp đến cho thêm một số bác sĩ chuyên xem hình. Chúng tôi sẽ liên lạc với cô ngay sau khi có kết quả chính xác. Đây là số phone của tôi. Cô có lo lâu hay thắc mắc gì hãy tự nhiên gọi.”


Từ hôm được tin tía có ung thư, gia đình tôi thay đổi chế độ ăn uống với sự hướng dẫn của những người bạn có kinh nghiệm và hiểu biết về bệnh học và cũng như những kiến thức về dinh dưỡng. Như tất cả mọi thứ Thượng Đế đã tạo ra, cơ thể của chúng ta cũng vô cùng thông minh; nó luôn tìm cách “đối thoại” với chúng ta. Cái gì quá nhiều thì sớm muộn gì cũng phải đến lúc ngừng lại; cái gì còn thiếu thì phải tìm cách thêm vô. Tía tôi ngưng ăn thịt đỏ, ngưng hút thuốc, ngưng uống rượu bia, bớt đường, bớt bột, bớt cay… Bù vào đó, ông ăn thêm đậu-hủ, cà-chua, cà-rốt, măng-tây… Thèm vị đắng và cay của bia hay rượu thì sẽ uống nước nấu từ dây khổ-qua. Nó cũng đắng và ngon y như bia!


Tía tôi hút thuốc chắc gần 50 năm… Chẳng dễ gì thuyết phục được ông bỏ thuốc. Nhưng khi phát hiện bị ung thư, có đưa thuốc dụ ông hút, ổng cũng hổng dám.


Cơ thể người hút thuốc tiết ra một loại cường toan (acid) có khả năng bào mòn và xé rách màng bao của những tế bào (membrance) trong cơ thể, mở cửa cho vi trùng và vi khuẩn có sẵn trong người vào trong các tế bào. Các vi trùng và vi khuẩn này sẽ ăn dần những chất bổ dưỡng trong tế bào, để rồi từ tình trạng mạnh khỏe ban đầu, các tế bào này sẽ bị hoại thư. Mầm ung thư bắt đầu mọc lên. Hiện tại vẫn chưa được xác định lý do chính xác dẫn đến ung thư. Chỉ biết ung thư là do sự biến dạng của DNA trong các tế bào. Khi cơ thể có nhiều tế bào trong tình trạng hoại thư, nó sẽ là cơ hội để ung thư phát triển nhanh khi ung thư xuất hiện.


Cứ mỗi lần tía tôi phải trải qua một quá trình xét nghiệm, làm sinh thiết hay chữa trị thì tôi phải thay mặt tía trả lời hàng trăm câu hỏi về quá trình sống của tía. Đâu phải trả lời “có hút thuốc” là xong. Câu hỏi kế tiếp sẽ là “mỗi ngày bao nhiêu điếu?” và người y tá sẽ làm một bài toán ngay trên điện thoại khi nói chuyện với tôi. Cô ta tính ra số điếu thuốc hút trong 50 năm qua. Dù tía tôi bị ung thư tuyến tiền liệt chứ không phải ung thư phế quản, thanh quản, phổi hay bao tử nhưng với độ cao của PSA (có nghĩa thuộc nguy cơ cao), ung thư có thể lan sang những chỗ khác nhanh ra sao vì màng tế bào không còn mạnh như những người bình thường, không hút thuốc lá khác.


Những lúc lái xe lui tới nhà thương là những lúc tôi thường nói chuyện với tía má vì khi về nhà, tôi lại phải chạy đi làm, lo nhiều việc khác. Tôi nghĩ chắc tía má cũng có khi “ngán” tôi chở họ đi nhà thương vì tôi hay “làm việc tư tưởng” với họ! Nhưng sorry nha… vì tôi quan niệm có thể hơi khác người ta một chút. Đã gọi là đối thoại thì phải thành lời. Có những đối thoại người ta thích nghe, có những đối thoại người ta không thích nghe, nhưng nếu chỉ nhìn nhau và nghĩ người kia chắc đã hiểu đã biết, không cần nói ra, rồi đòi hỏi người kia sẽ làm đúng, hoặc làm như mình nghĩ, thì kết quả có thể một trời một vực. Tôi nghĩ bụng, “Chắc tía biết cầu nguyện, có ai trên đời này lại không biết cầu nguyện?” nhưng cũng hổng chắc lắm nên tôi “đối thoại” với tía, “Khi cầu nguyện, ba cầu nguyện làm sao? Ba nói gì với ông Trời?” Tía ngần ngừ… Có lẽ vì hồi nào giờ chưa ai hỏi tía câu đó!


Tôi bèn kể chuyện cho tía nghe. “Sáng ra, trước khi ra khỏi nhà, con thắp nhang, cảm ơn ông Trời cho mình có một ngày mới. Lái xe ra khỏi nhà, con đọc kinh cầu xin cho con lái xe đến chỗ làm an toàn. Khi đến nơi, con lại đọc kinh cầu nguyện cho con có một ngày làm việc có hiệu quả. Trong ngày làm việc, khi xuất hiện những khó khăn rắc rối, con lại cầu nguyện cho con có khả năng giải quyết những gì cần thiết để hữu ích với những người xung quanh và cho nơi mình làm việc. Cuối ngày trước khi ngủ, con ôn lại mọi thứ diễn ra trong ngày rồi cảm ơn Thượng Đế, cầu sự bình an cho mọi người.” Còn những lúc cái túi chịu đựng trong con “cọp” bị đầy và nó nổi khùng lên thì sao? Con cọp đó còn cầu nguyện dữ hơn! Nó cầu nguyện cho cái con cọp trong người mềm mại lại, hiền hòa lại, kiên nhẫn hơn, biết chấp nhận và yêu thương hơn.


Ngoài chuyện thay đổi chế độ ăn uống, tía tôi cũng đi nhà thờ thường hơn. Ông có điều để cầu và nguyện. Ông đã ngộ ra sức mạnh của sự cầu nguyện và quyền năng cao cả của Tạo Hóa, bất kể mình ở đạo nào. Còn khuya mà dám thách đố ông Trời!


Qua nhiều ngày hồi hộp chờ đợi, đến ngày có kết quả của chụp hình toàn thân: “Chưa! Ung thư chưa đi đâu xa!” Bác sĩ gọi điện thoại báo tin cho tôi biết. Mọi thông tin kết quả bệnh tình của tía cũng cùng lúc được cập nhật trong hồ sơ trong nhà thương mà tôi có thể lên internet và vào xem chi tiết. Tôi điện thoại, nhắn tin báo tin cho cả nhà biết. Tin mừng này chắc cũng vui như tin đi vượt biên đến nơi bình an! Những suy nghĩ, kế hoạch và tính toán trong cái đầu của tôi bây giờ sáng lên và rẻ qua một nhánh, biết rõ hơn những gì sẽ diễn ra và cần làm.


Có bệnh nhân ung thư cả hai bên nội ngoại, tôi đã có dịp chứng kiến tiến độ của một số loại ung thư - sự khác biệt giữa các cách chữa trị, và kết quả tốt cũng như sự hũy hoại của từng cách chữa trị khi nó thích hợp hoặc đối nghịch với cơ thể. Như trường hợp vợ của anh đồng nghiệp bị ung thư bao tử - cơ thể chị ta không thích hợp với bất kỳ kiểu chữa trị nào. Xạ trị thì xạ trị. Hoá trị thì hóa trị. Ung thư vẫn y nguyên trước và sau. Và khi ngồi nghĩ lại, người chồng đã tiếc, “Cho làm lại, tôi sẽ không để vợ mình phải trải qua các hóa trị. Các hóa chất cho chạy trong người không giết ung thư mà giết cô ấy nhanh hơn.” May phước, ung thư tuyến tiền liệt có tử suất tương đối thấp. Khám phá kịp và chữa trị thích hợp, tỷ lệ bệnh nhân đánh bại được ung thư và sống còn có thể lên đến 90%. Quan trọng hơn cả cũng vẫn là sức mạnh tinh thần. Những tác nhân xung quanh sẽ có thể giúp hoặc làm mọi thứ thậm tệ hơn. Sự khuyến khích giúp bệnh nhân vững lòng, hoặc trầm trọng hóa vấn đề không cần thiết khiến tinh thần bệnh nhân thêm xuống thấp, sẽ có tính quyết định cho kết quả. Giễu cợt với bạn bè ra sao khi trò chuyện thì giễu cợt… thâm sâu trong lòng, tía biết rõ tía đã may mắn hơn triệu người khác ra sao!


Trước hết, tía sẽ được trị kích tố nam (male hormone) – chích một lần mỗi ba tháng. Từ ngày đó, tía tôi được theo dõi độ tiến hay lui của độ ung thư PSA để xem những chữa trị ảnh hưởng đến chứng ung thư trong người tía ra sao. Ngay hôm bắt đầu được chữa kích tố nam, tía được thử độ ung thư PSA. Lại một phép lạ! Độ ung thư ban đầu là 37.9, và chỉ sau một vài tháng “ăn chay” đã giảm xuống 18.6.


Nếu người đàn ông đã cao tuổi, không còn nhu cầu sinh lý, mắc ung thư tuyến tiền liệt và ung thư chưa di căn, giải phẫu cắt bỏ tuyến tiền liệt sẽ có lẽ là giải pháp thích hợp nhất. Tía tôi chọn giữ lại tuyến tiền liệt và làm xạ trị – cũng là góp ý của các bác sĩ. Ba tháng sau khi được trị hormone, tía tôi được làm xạ trị - Tùy thuộc vào độ nặng nhẹ của ung thư, bác sĩ chuyên trị xạ trị sẽ tính toán và đề nghị số lần làm xạ trị. Tía tôi sẽ trải qua 44 lần xạ trị. Xạ trị này rất nhẹ nhàng. Tía chỉ nằm vào máy như hôm người ta chụp hình X-ray toàn thân, và thời gian chiếu tia vào tuyến tiền liệt để diệt ung thư mỗi lần vậy sẽ kéo dài khoảng 10 phút. Nhưng làm sao mà biết tuyến tiền liệt nằm chính xác ở đâu, phình to ra bao nhiêu,… để mà nhắm máy “radiation” chiếu vào? Và đây là lúc tôi lại được học thêm một tiết học lý thú.


Người ta đi trám răng hay bọc răng bằng vàng, chứ có ai biết tuyến tiền liệt cũng có thể được gắn vàng? Bác sĩ chuyên “đóng mộc” vàng vào tuyến tiền liệt sẽ đưa một thiết bị vào tuyến tiền liệt và đóng ba dấu bằng vàng vào tuyến tiền liệt. Ba miếng vàng đó sẽ giúp máy phóng xạ định vị tuyến tiền liệt. Ngoài ra, để giới hạn vùng được làm xạ trị một cách chính xác - chỉ trong khoảng giới hạn của tuyến tiền liệt, chứ không quá lan rộng ra những vùng xung quanh mà làm hại đến những vùng còn mạnh khỏe khác - các bộ phận xung quanh tuyến tiền liệt phải được xác định rõ vị trí cũng như kích thước. Và để đạt được kết quả cao nhất, y khoa đã tìm ra giái pháp vô cùng hữu hiệu: tía tôi đã được đưa vào một chế độ sinh hoạt thật điều độ để các bộ phận trong người ông, nhất là ở vùng cần được chữa bệnh, cũng nằm yên trong ấy thật điều độ. Nghe thì có vẻ mơ hồ và buồn cười, nhưng chính xác là vậy. Nếu bệnh ung thư tuyến tiền liệt này mà không gõ cửa nhà tôi thì tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi và thấy được sự tinh vi và hiện đại mỗi ngày của y khoa.


Trước ngày hẹn để "đóng mộc" vàng vào tuyến tiền liệt của tía Hai Lúa, tôi quyết định tổ chức một chuyến nghỉ hè cho đại gia đình để tía má lên tinh thần. Nhưng tuần đó rơi vào thời điểm Việt Báo tổ chức lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ. Thành ra dù đã hứa với chú Từ cô Nhã và nhiều bạn hữu Việt Bút, tôi đã không thể về dự lễ.


Vài tuần trước khi bắt đầu các kỳ xạ trị, tía tôi được uốn g thuốc điều hòa tiêu hóa. Có nghĩa ông sẽ ăn uống và tiêu tiểu đúng giờ đúng giấc hơn bất cứ khi nào trong đời ông. Sáng ra, ông sẽ đi tiêu toàn bộ để trực tràng sẽ hoàn toàn rỗng, song song, ông sẽ uống thật nhiều nước để bọng đái căng phồng ở mức tối đa. Nhớ lại là, trực tràng nằm ngay sau tuyến tiền liệt. Khi bọng đái ở phía trước căng phồng, nó sẽ đẩy tuyến tiền liệt nằm ngay phía dưới xuống phía trực tràng. Khi trực tràng trống và bọng đái căng phồng thì tuyến tiền liệt sẽ nằm yên ở vị trí đó, không thể di chuyển đi đâu. Và khi đến nhà thương mỗi sáng để được bắn tia phóng xạ vào tuyến tiền liệt, ba cái bộ phận kể trên sẽ phải nằm ở chính xác vị trí đó.


Một tuần trước khi bắt đầu làm xạ trị, tía tôi đến nhà thương để các chuyên viên và bác sĩ xạ trị làm cho ông một cái khuôn. Khuôn? Cái khuôn đó là cái giúp khi tía nằm vào máy xạ trị thì chân và hông của ông sẽ nằm yên ở chính xác vị trí đó. Hình X-ray chụp lại các bộ phận trong nguời tía trên cái khuôn vừa chế, cộng với 3 dấu vàng trên tuyến tiền liệt sẽ giúp giới hạn vùng tia phóng xạ sẽ được bắn vào. Tia phóng xạ sẽ chỉ trị các mô ung thư trên tuyến tiền liệt – không bắn xa sang những vùng lân cận.


*


Ung thư có chăng chỉ mang lại chết chóc, chia ly?! Thình lình một người quen có chồng lăn đùng ra chết một cách vô cớ. Mấy bà bạn đi đám tang nói thầm với nhau, “Thấy chồng người ta chết mà mắc ham! Chồng lựu đạn của mình cứ sống nhăn răng.” Khi hờn nhau, chắc chỉ nói vậy cho hả tức chứ thật ra mấy cái người ấy thương nhau hơn mình tưởng. Có những điều thế gian không thể hiểu kia mà!


Má tía tôi cũng là một ví dụ trong vô vàn cảnh tượng mà tôi đã thấy xung quanh mình. Cứ tưởng khi bà vợ hay ông chồng của mình bất ngờ khám phá bị ung thư thì người kia sẽ ôi thôi là mừng. Nhưng không! Tự dưng họ trở nên tình tứ thân thiện đến lạ thường. Con cháu bà con hàng xóm ai ai cũng nhận thấy và phải ngạc nhiên. Cũng may phước! Chứ nếu lỡ họ không phát hiện còn quá thương nhau mà lại dẫy nẩy không thèm đá động đến nhau (cho thấy bà luôn)… thì chỉ có bằng chết mấy đứa con như tôi. Phải đi làm, phải lo đủ thứ việc, mà còn phải giải quyết thêm những điều thế gian không thể hiểu thì chỉ có mà chết cả lô tía nhà tôi chứ không phải một ông!


Có một sáng, tôi chuẩn bị đi làm thì nghe má Hai Lúa cằn nhằn tía Hai Lúa, “Tại sao ông lại mặc cái áo ngủ đi nhà thương? Nó nhăn nhúm và đầy mồ hôi.” Tía tôi quát lại, “Mặc kệ tui!” Thấy ngứa tai gai mắt, tôi bèn “đối thoại” với tía: “Ba à, ba hãy mừng là má không dở điên, bỏ thí ba nằm lăn lóc như kẻ vô gia cư. Ba chọc má khùng lên, ngoài căn bệnh ba phải chịu đựng, ba còn phải đối phó với cái khùng điên của má (do cái khùng điên của ba tạo ra)… thì ba chỉ có nước tiêu tán đường đó ba.”


Chắc tía nghe cọp tôi gầm gừ, ông ấy hoảng, bèn xếp càng lại cho ngay thẳng, không ngang như cua nữa. Bác sĩ có báo trước rồi. Khi trị hormone, người đàn ông cũng sẽ chứng-đời y như khi người phụ nữ đến thời kỳ mãn kinh (menopause), nắng mưa thất thường, lúc nóng lúc lạnh, lúc vui lúc buồn, lúc đáng yêu ơi là đáng yêu, lúc đáng ghét ơi là đáng ghét… Không ai chịu nổi.


Có lúc tôi đã nghĩ… phát hiện bị ung thư phải chăng một tiếng còi “cảnh thức”?! Có thể họ đã nghĩ, “Ông ấy cũng sắp chết rồi, ghét làm chi nữa!” Hay là, “À không, hóa ra mình cũng không đến nỗi ghét hắn lắm! Tự nhiên nghĩ đến chia ly lại thấy sợ chia ly…” Như bà ngoại tôi là nữ hoàng giận lẫy. Bà giận ông tôi suốt cả đời. Nhưng khi ông tôi ngã bệnh sắp mất thì bà lại tỏ ra thương ông đến lạ thường. Lại những điều thế gian không thể hiểu!


Tôi lại ngẫm nghĩ, phải mà mình đừng đợi cho đến khi phát hiện có ung thư hay mắc một căn bệnh chết người nào đó để sửa chữa, yêu thương, hàn gắn, tha thứ cho nhau thì chính mình và bao nhiêu người xung quanh đã được hưởng biết bao hạnh phúc, không phải trải qua đắng cay chua xót nào cả, không hao phí một ngày sống vui nào cả!


Thành ra, căn bệnh ung thư, không chỉ mang đến những điều tiêu cực, xấu xa. Nó mang người ta lại gần nhau, nó còn giúp người ta nhận ra giá trị của hạnh phúc và sự sống,…Và khi ai đó may mắn ra khỏi căn ung thư và sống tiếp, họ sẽ hưởng bù lại những năm tháng hạnh phúc bị lãng quên.


Kết quả thử máu lần thứ 4 của tía tôi cho ra chỉ số PSA là 5.6 - gần như của người bình thường là dưới 4.


Tía má tôi lấy nhau… để đếm coi, từ năm 72… vậy là được 44 năm. Ôi trời, gõ xong dòng chữ này thì tôi cũng giựt mình. Không thể là tình cờ được! Ông tía Hai lúa của tôi trải qua 44 lần xạ trị… Sao cũng lại 44?? Thiệt ngộ! Chẳng lẽ 44 lần đưa nhau lui tới nhà thương đó là 44 dịp để họ nhớ lại những gì đã sống với nhau, đã đối xử với nhau, ròng rã suốt 44 năm qua? Những lần đầu đi làm xạ trị thì tôi có đi với tía má. Một khi chắc ăn mọi thứ đâu vào đó, và họ có thể tự túc, thì họ đã tự đi với nhau. Không biết trên đường đi, họ có (bắt chước tôi) làm việc tư tưởng với nhau không, nhưng hy vọng họ đã nối lại sợi tơ hồng và tìm cách sống hạnh phúc hơn mỗi ngày sau đó.


Như bao nhiêu chuyện cổ tích, chuyện gia đình Hai Lúa nhà tôi cũng có phần kết có hậu.


Cảm ơn Thượng Đế đã ban cho gia đình con những gì chúng con đang được nhận hưởng! Có những điều chúng con xin và được. Có những điều chúng con xin nhưng kết quả lại khác. Chúng con sẽ hiểu Thượng Đế có những sắp đặt riêng cho mỗi người chúng con, với ý nghĩa và giá trị riêng của nó.



Cầu mong năm mới bình an và hạnh phúc đến với từng bạn đọc xa gần.


Anne Khánh-Vân

Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2017


Tháng 8 năm 1971 , chi đoàn 2/5 Thiết kỵ (-) chúng tôi biệt phái hành quân trên đất Miên với Trung đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ binh trong khu vực Đông –Bắc Kampuchea . Sáng sớm hôm ấy , chi đoàn cùng với một đại đội bộ binh tùng thiết , hành quân lục soát một khu làng mạc gần bờ sông Mê Kong . Xa xa phía bên kia sông là thành phố Kompong Chàm , một thành phố lớn hàng thứ tư của Miên nằm trên Quốc lộ 7 . Rời khỏi đồn điền cao su Suông , chúng tôi men theo một hương lộ đá đỏ đi sâu về hướng Bắc . Hai bên đường là khu rừng chồi thấp không có nhà dân .

Mục tiêu là một khu dân cư thưa thớt , giữa có ngôi chùa cổ rất lớn . Nhìn cách kiến trúc , chúng tôi phỏng đoán chắc ngôi chùa cổ nầy đã xây dựng hàng trăm năm nay , cổ kính và to lớn . Sư sải chỉ có khoảng mười người , phần lớn là các vị sư già . Họ cư xử với chúng tôi chừng mực không niềm nở cũng không xa cách . Có lẽ nơi đây các đơn vị Việt cộng và Khờ Me đỏ thường xuyên lui tới nên dù muốn dù không họ cũng phải giữ một khoảng cách với đoàn quân ngoại biên đang hành quân trên đất nước họ. Suốt ngày không có cuộc chạm súng nào , chúng tôi chỉ khám phá một số hầm hố cấp Đại đội còn mới của địch rải rác trong khu vực.Có lẽ địch vừa rút đi vài hôm trước. Khoảng 5 giờ chiều chúng tôi được lịnh rút về căn cứ Chiến đoàn đóng gần Quốc lộ 7, cũng theo hướng hương lộ buổi sáng . Chiếc Thiết vận xa M113 đi đầu rời vùng hành quân chừng một cây số thì cán phải mìn chống chiến xa . Quả mìn nổ phía đầu xe , đứt xích , bể guồng kéo xích bên trái , phía bên tài xế . Các xe phía sau phản ứng tức thời khai hỏa hướng hai bên đường rừng chồi thấp. Không thấy địch chống trả như một trận phục kích . Tôi cho chi đoàn vượt hương lộ băng sâu vào hai bên đường bố trí. Như vậy chỉ có một quả mìn chống chiến xa đơn lẻ mà thôi. Lát sau tôi đến chiếc xe bị mìn quan sát . Hạ sĩ Năm tài xế M113 chết tại chỗ , trung sĩ Vân trưởng xa bị thương ở vai , các binh sĩ khác trong xa đội xây xát chút đỉnh . Lính khiêng người chết và bị thương ra khỏi buồng lái, chờ trực thăng đến tải thương. Chiếc M113 hoàn toàn bất khiển dụng , đứt xích , thủng một lổ gần chỗ tài xế ngồi . Tôi bước vào trong xe, thấy ngổn ngang vũ khí cá nhân của xa đội , 2 nòngsúng đại liên50 và 30 bị cong vì sức công phá của quả mìn. Lẩn lộn trong đó là một thanh kiếm cổ còn nguyên vẹn. Hỏi các binh sĩ thì họ cho biết là tài xế Năm lấy nó trong chùa ban trưa và đem giấu trong xe . Tôi cầm thanh kiếm lên thì thấy rất nặng , ít ra cũng cở 4-5 ký. Người xử dụng thanh kiếm nầy hẳn phải là tay vũ dũng phi thường . Tay mơ khó lòng múa nổi thanh kiếm nầy. Trước đây chủ nhân thanh kiếm nầy  chắc đã đi vào lịch sử của một triều đại Miên nào đó. Tiếc rằng trong chi đoàn chúng tôi không ai đọc được chữ Miên nên đành đoán mò mà thôi . Bao gỗ thanh kiếm màu nâu , lên nước bóng loáng , có chạm trổ hoa văn chim thú, hoa lá . Rút thanh kiếm ra khỏi vỏ , thấy tỏa ánh sáng xanh . Tôi chặt thử bụi cây ven đường , ngọt sớt, vô cùng sắc bén . Đúng là một thanh bảo kiếm giá trị không sao lường được. Thanh kiếm dài cở một mét kể cả cán kiếm. Cán kiếm cũng có chạm trổ hoa văn và chữ Miên. Lát sau trực thăng đến tải thương xong , tôi đem thanh kiếm về xe M113 chỉ huy của tôi .

Khoảng 6 ngày sau , chi đoàn chúng tôi rời vùng đồn điền cao su Suông , tiến sâu về hướng Đông Quốc lộ 7, cách ngả ba Krek chừng 50 cây số thuộc đồn điền cao su Mimot. Lần nầy chi đoàn đi chung với một tiểu đoàn  thuộc trung đoàn 48 bộ binh. Suốt ngày hành quân vô sự  . Tối đến chúng tôi đóng quân nghỉ đêm trong vườn cao su ven Quốc lộ 7. Đêm tháng 8 trời không gió, thời tiết nóng bức  nên tôi hạ cầu dốc phía sau M113 xuống , lót ván ngang hông xe , nằm trằn trọc không ngủ được. Đến khoảng 1 giờ khuya , địch bắt đầu pháo kích và tấn công vào vị trí dã chiến của chi đoàn. Chưa kịp đóng cửa cầu dốc phía sau thì một quả đạn cối 82 ly nổ cách xe chừng 5 mét. Tôi bị miểng pháo xuyên thủng bàn chân trái , thiếu tá Luân tiểu đoàn trưởng bị thương ở ngực. Tôi tự băng bó tạm thời vết thương và lên máy truyền tin điều động các chi đội chống trả. Sau chừng một giờ giao chiến , địch rút lui trước sự chống trả quyết liệt của chúng tôi . Khoảng 10 giờ sáng hôm sau , trực thăng chở trung tá Nguyên  chiến đoàn trưởng 48 và chuẩn tướng Lâm Quang Thơ Tư lịnh Sư đoàn 18 bộ binh đáp xuống gần vị trí chúng tôi , thị sát mặt trận . Một số tử thi địch còn nằm rải rác trong vườn cao su . Chừng 10 phút sau địch lại tiếp tục rót pháo vào vị trí chúng tôi . Hai vị khách chạy vào xe M113 của tôi tránh pháo . Thấy thanh kiếm cổ còn để trong xe chờ đem về hậu cứ trong đợt tiếp tế sau  , trung tá Nguyên trung đoàn trưởng hỏi xin và tôi cũng đồng ý tặng ông . Sau đó hai vị khách rời vùng giao tranh , thiếu tá Luân và tôi cũng theo trực thăng tản thương về binh viện Tây Ninh.

Trung tá Nguyên nhận được thanh kiếm báu ,ông cho người đóng một giá kiếm bằng gỗ cẩm lai rất đẹp và đem tặng cho chuẩn tướng Lâm Quang Thơ . Tướng Thơ lại đem tặng cho trung tướng Đỗ Cao Trí Tư lịnh Quân Đoàn.Sau nầy tôi có dịp trò chuyện với đại úy Tuấn-sĩ quan tùy viên của trung tướng Đỗ Cao Trí- , tháp tùng tướng Trí đi thăm trung đoàn 48 bộ binh đóng ở căn cứ Thùy dương bên Miên . Đại úy Tuấn cho biết thanh kiếm ấy vẫn còn treo tại tư dinh tướng Trí tại thành phố Biên Hòa.

Đầu năm 1972 tướng Trí cho mỡ một cuộc hành quân lớn đánh vào sào huyệt Cục R của Việt cộng tại Chlong thuộc tỉnh Kratie phía Đông Bắc Kampuchea với một lực lượng hung hậu gồm Lữ đoàn 3 Kỵ binh và Liên đoàn 5 Biệt động quân trong giai đoạn 1 và thêm Sư đoàn nhảy dù trong giai đoạn 2 . Cuộc hành quân mới bắt đầu có 5 ngày thì tướng Trí tử nạn trực thăng ở Tây Ninh trên đường bay thị sát mặt trận ở Miên . Sau khi tướng Trí chết thì 3 Sư đoàn 5-7 và 9 của cộng quân bắt đầu phản công , vây hảm và chận đường về của đoàn quân . Hàng ngày phi cơ chiến lược B52 dội bom hai bên đường nhưng địch quân vẫn bám sát . Sau nhờ Đại tá Trần Quang Khôi –Tư lịnh Lử Đoàn 3 Kỵ bịnh – điều động đoàn quân  cắt rừng chồi sâu về hướng Đông chừng một cây số rồi quay ngược,bọc hậutấn công vào hông địch tại miếu Thổ thần , sau đó đưa đoàn quân viễn chinh về đến Tây ninh , bảo toàn được lực lượng . Thế trận vùng ngoại biên bắt đầu co cụm lại cho đến ngày đoàn quân vượt biên rút hết về nước vào cuối năm 1972.

Sau ngày tướng Trí chết không còn ai biết thanh kiếm báu ở chùa Miên xiêu lạc nơi đâu . Cuối năm 1972 có một phóng viên của tờ báo Tin sáng có viết một bài về thanh kiếm nầy , cho rằng sau đó bà quả phụ Đỗ Cao Trí tặng thanh kiếm trên cho Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt . Chuyện nầy cần kiểm chứng lại vì sau nầy ở Mỹ , tôi có hỏi một người bạn cũ theo học khóa 26 Võ bị Đà Lạt  . Anh nầy cho biết  khi còn học tại trường, khóa anh có dịp tham quan phòng  bảo tàng của trường thì chỉ thấy tại đây có trưng bày cây gậy chỉ huy của tướng Trí bằng gỗ mun thôi . Không hề thấy thanh kiếm nào ở đó và cũng chẳng nghe cán bộ trường đề cập đến chuyện nầy.

Quí vị độc giả nếu có ai biết ít nhiều về tung tích thanh kiếm báu ở chùa Miên sau năm 1975 thì xin vui lòng cung cấp tin tức cho tác giả , để bổ sung cho bài viết nầy đầy đủ hơn. Ai cũng biết là người Miên rất giỏi về bùa ngãi , thư ếm . Do đó không rỏ có sự huyền bí nào về thanh kiếm báu mà chúng ta thấy những tai họa liên tiếp xảy đến cho những người liên quan hoặc có thời gian sờ mó tới thanh kiếm dù ngắn hay dài , từ ngày vật bất tường nầy rời khỏi chùa Miên -Kompong Chàm vào tháng 8 năm 1971 . Tôi xin tóm lược như sau:
1# Người lấy trộm thanh kiếm từ chùa Miên là Hạ sĩ Năm , tài xế Thiết vận xa M113 chết vì mìn , chỉ vài giờ sau khi sở hửu thanh kiếm.
2# Chi đoàn trưởng Vũ Đình Lưu bị miểng pháo xuyên thủng chân trái , nằm viện cả tháng sau khi giữ thanh kiếm được 6 ngày.
3# Trung tá Nguyên Trung đoàn trưởng 48 bộ binh bị tướng Trí cách chức tại mặt trận sau khi làm chủ thanh kiếm được chưa đầy một tuần.
4# Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ được tặng thanh kiếm từ trung tá Nguyên , sau đó ông lại tặng cho tướng Trí . Sau khi tướng Trí chết chừng một tháng,ông cũng bị mất chức Tư lịnh Sư doàn 18 bộ binh , giao sư đoàn cho Đại tá Lê Minh Đảo.
5# Tướng Đỗ Cao Trí là người giữ thanh kiếm lâu nhất , đâu chừng 4-5 tháng , chết vì trực thăng phát nổ trên không ở Tây Ninh , trên đường bay thị sát mặt trận . Nguyên do chiếc trực thăng phát nổ cho đến nay vẫn còn là một nghi vấn.
 Hồ Thanh Nhã 

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

Nguyên Lam - RFA Phỏng Vấn
Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, qua nhiều chương trình liền, ông thường nhắc tới một nhu cầu là dân quyền và nhân vị trong công cuộc phát triển kinh tế và chế độ độc tài sẽ không thể đem lại thịnh vượng cho người dân. Ý kiến ấy có vẻ như đi ngược với luận cứ của nhiều chuyên gia kinh tế hay thành tích chói lọi của Trung Quốc với một chế độ thiếu dân chủ. Vì vậy, kỳ này xin đề nghị ông giải thích tiếp về nghịch lý đó.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng trong thế kỷ 20 đã có cuộc tranh luận về giá trị của hai mô hình kinh tế đối nghịch. Một là tập trung kế hoạch của các nước cộng sản hai là tự do phát triển theo quy luật thị trường của các nước dân chủ. Kết cuộc thì các chế độ cộng sản độc tài trôi vào khủng hoảng hoặc tan rã từ năm 1991 nên chẳng còn được nhà lý luận nào bênh vực nữa. Nhưng một số người từng đặt niềm tin vào chế độ cộng sản lại tìm ra một lý lẽ khác, từ cộng sản chạy qua xã hội chủ nghĩa. Rằng thế giới có các nước chuyên chế độc tài nhưng được lãnh đạo anh minh sáng suốt để quyết định về việc sung dụng tài nguyên quốc gia nên đạt thành quả phát triển cao. Hiện tượng được viện dẫn là nhiều nước tân hưng Đông Á chưa có dân chủ thì đã phát triển mạnh. Lớn thì có trường hợp Trung Quốc, nhỏ thì là trường hợp Singapore, Hong Kong, ở giữa thì có Đài Loan, Nam Hàn. Vì nhiều chuyên gia kinh tế quốc tế của Tây phương cũng đồng tình với lập luận ấy cho nên chúng ta cần tìm hiểu sâu xa hơn về sự sai lầm của họ. Kỳ này, tôi xin được nói về chuyện đó, nhất là về trách nhiệm của giới chuyên gia và sẽ phải lần lượt đi từ đầu qua từng bước.

Nguyên Lam: Nguyên Lam xin được mời ông trình bày sự thể này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, thế giới có nhiều nước nghèo, chậm phát triển hoặc chưa phát triển mà nói cho phũ phàng thì còn chậm tiến. Nhưng các định chế quốc tế vẫn lịch sự gọi đó là các nền kinh tế “đang lên”. Trong lãnh vực kinh tế, có loại chuyên gia quan tâm đến việc phát triển các nước nghèo, ta gọi họ là “chuyên gia phát triển”, chứ không vơ đũa cả nắm mà phê phán mọi chuyên gia. Chuyện thứ ba, với giới chuyên gia phát triển thì nếu một nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 6% một năm, như Việt Nam hiện nay, thì đấy là bước đầu của phát triển vì nếu giữ được tốc độ ấy trong 12 năm liền là có thể nâng lợi tức gấp đôi.

- Lấy tiêu chuẩn 6% như hòn đá thử vàng, giới chuyên gia phát triển mới đo lường công cuộc phát triển của các nước nghèo và suy ngược lên lý do, là các nước đã có chính sách kinh tế quốc gia thế nào để giữ được đà tăng trưởng trong lâu dài? Trường hợp của bốn nền kinh tế Singapore, Hong Kong, Đài Loan và Nam Hàn được họ coi là mẫu mực. Sau đó họ viện dẫn thêm trường hợp của Trung Quốc rồi của Việt Nam. Yếu tố cần chú ý ở đây là khái niệm “chính sách kinh tế quốc gia”, với hàm ý rằng đà tăng trưởng là do các chính quyền hay nhà nước hoạch định và thi hành từ trên xuống, nghĩa là nhà nước mới giữ vai trò trọng yếu.

Nguyên Lam: Thưa ông, khi cho rằng nhà nước mới giữ vai trò trọng yếu qua chính sách kinh tế quốc gia từ trên ban xuống thì phải chăng các chuyên gia về phát triển vẫn đánh giá sai hai yếu tố kia là thị trường và người dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đấy mới là vấn đề! Đầu tiên, cái tiêu chuẩn 6% ấy thật ra vô giá trị vì nhiều nước nghèo khác cũng từng có chục năm tăng trưởng như vậy, sau đó là suy sụp. Thí dụ như Togo vào quãng 1960, Paraguay vào quãng 1970 hay Oman quãng 1980, rồi Cộng hòa Dominican vào quãng 1990, nước Chad vào quãng 2000 hay Rwanda vào quãng 2010. Ngày nay chẳng còn ai nhắc đến sáu nước bại liệt đó nữa. Lý do ở đây là xứ nào cũng có thể được chục năm tăng trưởng mà không bền vững, và tăng trưởng chưa thể là phát triển.

- Sai lầm thứ hai của các chuyên gia về phát triển là cho rằng yếu tố dẫn tới tăng trưởng lâu dài thuộc về chính sách vĩ mô do nhà nước đề ra. Thí dụ như bội chi ngân sách, chế độ kiểm soát giá cả và lãi suất hay mậu dịch, v.v… Lý do sai lầm là vì giới chuyên gia được mời làm tư vấn cho nhà nước về chính sách và tưởng rằng hay làm người ta tưởng là nhờ sự cố vấn của họ mà kinh tế đạt mức tăng trưởng trong lâu dài. Sự thật thì nhiều đà tăng trưởng ấy có thể khựng và đảo ngược như các trường hợp nói rên. Nguyên nhân tăng trưởng hay suy thoái có khi chẳng thuộc chính sách kinh tế nhà nước mà vì nhiều yếu tố có tính chất giai đoạn, như sự thăng trầm của giá nguyên nhiên vật liệu, của đầu tư hay viện trợ từ nước ngoài, hoặc thậm chí thiên tai lẫn cả cách đếm sai đà tăng trưởng. Vì thế, Singapore hay Hong Kong cũng có 10 năm ngoạn mục từ năm 2000 tới 2010 nhưng sau đó thì giảm.

- Có một quy luật thực tế ở đây là khi một nền kinh tế đạt mức tăng trưởng vượt bậc, hơn hẳn trung bình của các quốc gia khác, thì sau mươi năm là hụt hơi. Đầu năm 1997, các chuyên gia quốc tế vừa ngợi ca phép lạ kinh tế Đông Á thì Tháng Bảy năm đó lại nổ ra vụ khủng hoảng kinh tế với hậu quả là Đông Á bị suy thoái trong bốn năm liền tới độ Nam Hàn còn phải xin Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế cấp cứu. Sai lầm căn bản nhất của giới chuyên gia là nhìn vào chuyện trừu tượng mà quên hẳn số phận của dân nghèo khi sẵn sàng cộng tác với các chế độ chuyên chính độc tài và lại còn nói rằng nhờ sức mạnh của nhà nước thì quốc gia mới dễ phát triển.

Nguyên Lam: Chúng ta bước qua một vấn đề khác, là thưa ông, liệu các chế độ độc tài có ưu thế cao hơn nền dân chủ hay không khi họ đề ra chính sách kinh tế cho toàn dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đấy là huyền thoại nguy hại nhất. Huyền thoại là cái gì đó không thật mà cứ được loan truyền, và trong lĩnh vực kinh tế, các chuyên gia về phát triển ưa loan truyền lý luận tai hại đó. Tôi xin lấy một thí dụ tiêu biểu là công trình nghiên cứu hỗn hợp của Ngân hàng Thế giới và nhà cầm quyền Trung Quốc được công bố năm 2013 mà tiết mục chuyên đề của chúng ta cũng có nhắc tới. Đấy là Phúc trình có tên là “Trung Quốc năm 2030: Xây dựng một Xã hội Hiện đại, Hài hòa và Sáng tạo”. Sự thật là trong khi Bắc Kinh đàn áp người dân, kiểm soát báo chí thì họ quyết định về các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới và kinh tế gia của họ làm công tác tuyên truyền này. Khi thấy Ngân hàng Thế giới tung ra báo cáo ấy thì người ta tin rằng định chế tài trợ phát triển này xác nhận tương lai sáng láng của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của một chế độ sáng suốt có đầy ý chí. Trong khi đó, người ta bỏ qua số phận của dân nghèo trong một quốc gia đầy ô nhiễm và tham nhũng. Đây là một hiện tượng lầm lạc đã có từ lâu và rất khó sửa. Nó đã có từ thời Đặng Tiểu Bình nay tiếp tục với Tập Cận Bình. Sự thật thì kinh tế có thể tăng trưởng nhờ sức dân mặc dù người dân lại là nạn nhân của chế độ độc tài, và ngược lại, chính sách kinh tế của nhà nước độc tài mới dễ gây ra khủng hoảng.

Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, vì sao người ta lại khó cải sửa sự lầm lạc như ông vừa nói?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thứ nhất là nhiều người cho rằng chế độ độc tài có khả năng tập trung cao hơn chế độ dân chủ để phát triển quốc gia dù khái niệm phát triển đó chỉ là tăng trưởng mà thôi. Sự thật ở đây là một thống kê u ám. Các lãnh tụ độc tài thường tàn phá quốc gia mà không có thuốc chữa, còn trường hợp tương đối tốt đẹp như lãnh tụ Phác Chính Hy tại Nam Hàn, Lý Quang Diệu của Singapore hay Augusto Pinochet của xứ Chile chỉ là ngoại lệ, là rất hãn hữu. Thứ hai, nhiều người công nhận rằng dù các lãnh tụ độc tài tệ hại nhất có thể tàn phá quốc gia hơn một lãnh tụ dân chủ bất tài nhất thì các lãnh tụ độc tài sáng suốt vẫn có nhiều thành tựu hơn các lãnh tụ dân chủ sáng suốt nhất. Sai lầm thứ hai này mới khó cải sửa vì nó khá mơ hồ.

- Thí dụ điển hình gần gũi với Việt Nam là trường hợp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là người khởi xướng đổi mới, hay Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người tiến hành sau đó, hoặc gần đây hơn nữa là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhiều tai họa kinh tế phát sinh từ thời lãnh đạo của các nhân vật ấy mà chuyên gia quốc tế không biết, hoặc có biết một cách mù mờ thì tránh nói tới. Sự thật ở đây là ngoài vài trường hợp ngoại lệ, không phải là chế độ độc tài phát triển quốc gia nhanh hơn chế độ dân chủ. Ách độc tài thu hẹp khả năng cải sửa của thị trường và người dân cho nên dân nghèo mới là nạn nhân ở dưới đáy. Hãy hỏi bà con ở miền Trung ngày nay tại Vệt Nam thì biết thế nào là nạn nhân ở dưới đáy vì nhiều quyết định xa xưa của chế độ độc tài.

- Trong khi đó, sự thật lịch sử từ bảy tám chục năm qua đều cho thấy là các chế độ dân chủ đã phát triển bền vững hơn. Quan trọng nhất, chế độ dân chủ có khả năng thẩm xét thực tài của giới chuyên gia trong khi chế độ độc tài lại dùng chuyên gia quốc tế làm bình phong cho các chính sách tai hại của họ. Việc Ngân hàng Thế giới hay Công ty tài trợ IFC vừa bị phê phán cho thấy là chính khả năng các chuyên gia quốc tế về phát triển đang bị thẩm xét lại.

Nguyên Lam: Vì thời lượng có hạn cho một đề tài lý thú, Nguyên Lam xin yêu cầu ông đưa ra một kết luận, dù đó có thể chỉ là một kết luận tạm cho một vấn đề quá sâu xa phức tạp.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi một chế độ độc tài cho người dân có thêm quyền tự do về kinh tế thì đấy chỉ là một cách dung hợp với yêu cầu của thị trường mà lại được giới chuyên gia phát triển đánh giá là đổi mới hay cải cách. Trong khi đó, chế độ độc tài lại không cho người dân có thêm quyền tự do về chính trị, là trường hợp phổ biến của nhiều nước nghèo, kể cả Trung Quốc hay Việt Nam, thì giới chuyên gia tránh nhắc tới, hoặc còn biện hộ rằng nhờ đó mà có ổn định. Ta rất nên thận trọng với loại chuyên gia ấy khi họ ăn cây nào phải rào cây nấy.

- Sự thật quan trọng nhất là công cuộc phát triển nước nghèo phải đi từ dưới lên, từ dân nghèo. Quyền tự do, nhân phẩm hay nhân vị của họ phải là điểm khởi đầu và chính sách phát triển phải ưu tiên nhắm vào họ. Cái chân lý hay “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” theo ngôn từ cộng sản, phải xuất phát từ một điều đã được các nước Tây phương xiển dương từ hơn hai thế kỷ trước, rằng “con người ta sinh ra là phải có quyền tự do và được bình đẳng”. Lớp người nghèo khổ nhất không có cơ hội bình đẳng và thiếu tự do chọn lựa. Chính sách phát triển phải khởi đi từ thành phần bần cùng đó, chứ không từ các giai tầng trên và nhất là không từ lãnh đạo ở chóp bu đã lấy tài nguyên quốc gia nuôi các chuyên gia có nhiệm vụ bảo vệ chính nghĩa đáng ngờ của chế độ. Bản thân tôi thường đọc phúc trình của các chuyên gia này với sự nghi ngờ đó!

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn kỳ này.
Được tạo bởi Blogger.

Ads 468x60px

Followers

Featured Posts

Blog Archive

Blog Archive

Tuần Báo

Tuần Báo

RAO VẶT - Tìm Thợ

Pages

Unordered List

Hạng Mục Thương Mại

Restaurant

Sample Text

Tin Nổi Bật

Popular Posts

Recent Posts